Thói quen vệ sinh hàng ngày tốt hay xấu đều quyết định đến sức khỏe của mỗi người. Các cô gái quá lười thay băng vệ sinh nên thay đổi ngay, nếu không sẽ bị vi khuẩn tấn công và rơi vào tình trạng tương tự cô gái này.
Phụ nữ bình thường sẽ có k.inh n.guyệt hàng tháng, ngoài ra cấu tạo của đường tiết niệu và hệ s.inh d.ục khác với nam giới, nguy cơ viêm nhiễm cao hơn nên việc vệ sinh và giữ gìn vùng kín khỏe mạnh là đặc biệt quan trọng.
Tờ Ettoday đưa tin, một cô gái 23 t.uổi trong kỳ k.inh n.guyệt, vì muốn mình hấp dẫn trong buổi tiệc tùng, đã mặc 1 chiếc quần lót khá ôm sát. Sau buổi tiệc, do đi lại nhiều nên vùng hạ bộ của cô bị trầy xước nhưng vì quá mệt mỏi nên cô cũng ngủ thiếp đi luôn mà không hề vệ sinh vùng kín.
Sáng hôm sau, cô thức dậy vì quá khó chịu ở phần dưới, không chịu nổi, cởi quần ra thì mới phát hiện bên dưới miếng băng vệ sinh chưa thay từ hôm trước, hạ bộ của cô đã sưng to gấp 4 lần bình thường.
Khi đi khám, vừa cởi quần xuống, bác sĩ cũng sững người đến vài giây. Cuối cùng, bác sĩ phát hiện ra cô bị mắc bệnh viêm mô tế bào.
Người bác sĩ trong câu chuyện kể trên, đồng thời cũng là người chia sẻ cách xử lý ca bệnh trên chương trình “Doctor Is So Spicy”, bác sĩ sản phụ khoa Chen Baoren cho biết: Khi đến bệnh viện, vùng hạ bộ của cô gái sưng to, đỏ ửng khiến cô vô cùng xấu hổ. Trước khi đến bệnh viện, bệnh nhân đã lên mạng kêu cứu rồi ra hiệu thuốc mua thuốc về tự lau nhưng không có kết quả, đến tối mới đi cấp cứu vì quá khó chịu.
Bác sĩ sản phụ khoa Chen Baoren: Phụ nữ không thay băng vệ sinh, gây bí và ngứa, vi khuẩn phát triển và viêm mô tế bào
Sau khi dò hỏi, mới biết sản phẩm vệ sinh của cô dùng không làm sạch sẽ vùng kín khiến â.m h.ộ bị viêm mô tế bào, ngoài sưng tấy, thực tế còn có vết thương ở vùng kín. Lúc đầu, cô gãi nhiều vì ngứa, sau đó vì say xỉn không kiểm soát được nên càng gãi mạnh hơn, phần dưới của cô ở trong môi trường ẩm ướt, có m.áu khiến vi khuẩn phát triển nhanh chóng. Trong đó, vi khuẩn Staphylococcus aureus là loại đáng sợ nhất.
Cuối cùng, bệnh nhân này phải nằm viện 3 ngày và điều trị kháng sinh 14 ngày. Tuy nhiên, bệnh nhân không chịu hợp tác để điều trị dứt điểm nên trong tương lai, rất có thể cô ấy sẽ bị nhiễm bệnh lần nữa. Bác sĩ Chen Baoren nhắc nhở các cô gái rằng việc mặc quần bó và mang miếng băng vệ sinh quá lâu có thể khiến vùng kín bị bí, nóng, lâu ngày rất dễ bị n.hiễm t.rùng. “Không phải ai cũng tưởng tượng được rằng â.m h.ộ bị tấy đỏ (nghiêm trọng như nhiễm Chrysococcus) sẽ nguy hiểm đến tính mạng”.
[Thuốc&Sức khỏe] Iod với sức khỏe t.rẻ e.m
Iod là một trong những vi chất dinh dưỡng quan trọng đối với sức khỏe con người, nhất là t.rẻ e.m. Thiếu hụt iod ở t.rẻ e.m có thể gây nhiều tác động xấu đến sự phát triển và sức khỏe của trẻ trong tương lai.
Ảnh minh họa
Là một trong những vi chất rất quan trọng đối với cơ thể, iod giúp tuyến giáp tổng hợp các hormon điều chỉnh quá trình phát triển của hệ thần kinh trung ương, phát triển hệ s.inh d.ục và các bộ phận trong cơ thể như tim mạch, tiêu hóa, da – lông – tóc – móng, duy trì năng lượng cho cơ thể hoạt động…, tham gia tạo hormon tuyến giáp trạng T3 (tri-iodothyronin) và T4 (thyroxin) bằng các liên kết đồng hóa trị.
Các hormon này đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa phát triển cơ thể, kích thích tăng quá trình chuyển hóa tới 30%, tăng sử dụng oxy và làm tăng nhịp tim. Ngoài ra, iod còn có vai trò trong việc chuyển hóa Beta – caroten thành vitamin A, tổng hợp protein cho cơ thể hoặc hấp thụ đường trong ruột non.
Theo các chuyên gia dinh dưỡng, lượng iod cần thiết hàng ngày cho trẻ khác nhau tùy theo từng lứa t.uổi. Đối với trẻ còn bú từ sơ sinh đến 6 tháng cần 40mcg, trẻ còn bú từ 6 – 12 tháng cần 50mcg, trẻ từ 1 – 3 t.uổi c70mcg, trẻ từ 4 – 9 t.uổi 120 mcg, từ 10 – 12 t.uổi 140mcg, đối với người trưởng thành là 150 – 200mcg.
T.rẻ e.m và phụ nữ mang thai là những đối tượng rất dễ bị thiếu iod do nhu cầu thường tăng cao. Ở phụ nữ mang thai, nếu thiếu iod người mẹ có nguy cơ sảy thai, sinh non, thai c.hết lưu trong bụng mẹ. Nếu tình trạng thiếu iod nặng có thể làm cho não bộ bào thai kém phát triển, trẻ ra đời sẽ chậm phát triển trí tuệ, đần độn và thường có những khuyết tật bẩm sinh như điếc, lác mắt, liệt, cận thị… Đối với t.rẻ e.m thiếu iod sẽ gây chậm phát triển trí tuệ, chậm lớn, nói ngọng, dễ gây bệnh bướu cổ, thiểu năng tuyến giáp ảnh hưởng lớn đến sự phát triển và hoạt động của toàn cơ thể.
Việc phòng ngừa tình trạng thiếu iod ở trẻ thật sự rất dễ thực hiện, vì trên thực tế chỉ cần chú ý bổ sung lượng iod cần thiết hàng ngày cho cơ thể bằng những loại thực phẩm giàu chất iod như các loại hải sản, rong biển, tảo biển, các loại rau xanh đậm, các loại trái cây tươi, thịt và sữa. Đặc biệt, hiện nay người dân được khuyến cáo sử dụng muối iod thường xuyên trong việc chế biến thức ăn để phòng tránh hiệu quả tình trạng cơ thể bị thiếu hụt lượng iod, nhất là t.rẻ e.m đang t.uổi tăng trưởng.
Phòng ngừa tình trạng thiếu iod ở trẻ có thể áp những từ chính chế độ ăn uống hàng ngày của trẻ, cụ thể:
Với trẻ từ 0 – 6 tháng t.uổi được bú mẹ hoàn toàn thì người mẹ nên ăn nhiều hải sản và dùng muối iod hoặc nước mắm có pha chất iod để nguồn dưỡng chất quan trọng này tiết qua sữa mẹ bổ sung lượng iod cần cho bé.
Với trẻ đã ăn dặm thì cần bổ sung iod qua chế độ ăn uống hàng ngày của trẻ. iod thường có rất nhiều trong các loại hải sản như cá, tôm, cua, ghẹ… và có nhiều trong các loại rau như rong, tảo biển, rau câu, rau xanh, cải bắp… Trứng và các thực phẩm từ sữa cũng là một nguồn cung cấp iod khá phổ biến và phong phú cho trẻ. Vì vậy, người mẹ nên chú ý thêm các loại thực phẩm chứa nhiều chất iod này vào thực đơn hàng ngày cho trẻ.
Có thể thêm chút muối iod hoặc nêm nước mắm có chứa chất iod nhưng người mẹ cần chú ý chỉ nêm nhạt thôi để tránh những tổn hại cho thận của trẻ.